Khi Nào Truyền Nước Hoa Quả

Khi Nào Truyền Nước Hoa Quả

Người Ai Cập cổ đại thường sử dụng nước hoa cho việc cúng bái

Giới thiệu một số loại dịch truyền phổ biến

Loại truyền nước thông dụng nhất, thường được gọi với cái tên “truyền muối biển”. Tại nồng độ 0,9%, dung dịch muối đẳng trương, nồng độ này thích hợp nhất do có độ thẩm thấu tương đầu với các dịch bên trong cơ thể người.

Truyền 1000ml nước muối sinh lý thì có khoảng 250ml được giữ lại trong lòng mạch.

Được sử dụng trong những trường hợp sau:

- Sốt siêu vi mất nước, tiêu chảy, nôn mửa, tiểu đường,...

- Pha loãng cùng với một số loại thuốc để truyền vào cơ thể.

- Sử dụng khi có những chỉ định đặc biệt của bác sĩ.

Nacl 0,9% là loại được sử dụng nhiều nhất

Trong dung dịch Lactate Ringer bao gồm nước và một số ion như Na+, K+, Ca2+. Cl-,... Dung dịch này có tình chất thẩm thấu giống như huyết tương, ươu trương nhẹ. Được chỉ định trong những trường hợp cần bù nước và điện giải, không nên sử dụng cho những bệnh nhân bị mất nước do nôn nhiều. Truyền 1000ml thì có 190ml được giữ lại trong lòng mạch.

Dung dịch đường Glucose 5% có tính chất tương tự như dung dịch NaCl 9%, được sử dụng trong những trường hợp sau:

- Mệt mỏi nôn nao sau khi say rượu.

Cơ thể mệt mỏi thì truyền nước biển, đúng hay sai?

Thực tế, rất nhiều người cảm thấy mệt mỏi, thiếu ngủ, biếng ăn, khó ở trong người… là nghĩ ngay đến việc truyền nước biển nhằm hồi phục sức khỏe. Tuy nhiên, các triệu chứng này thường có rất nhiều nguyên nhân. Hơn nữa, bệnh nhân cần phải hiểu thêm việc truyền nước biển có những tác dụng gì, có an toàn và đơn giản như vẫn nghĩ?

Việc tự ý truyền nước biển tại nhà khi không có đủ phương tiện xét nghiệm để biết cơ thể đang thừa hay thiếu chất gì trong máu, có thể dẫn đến những biến chứng cực kỳ nguy hiểm mà bạn không thể lường trước được.

Trong cơ thể của mỗi người, đều có các chỉ số về trung bình trong máu, đường, các chất điện giải, muối,... Nếu một trong các chỉ số trung bình trên thấp hơn mức cho phép thì lúc đó chúng ta cần phải bù đắp, nhưng làm sao biết được lúc nào bù đắp, và bù đắp bao nhiêu thì đủ? Do đó chúng ta cần phải làm các xét nghiệm để biết được rằng việc truyền nước biển có cần thiết biển hay không.

Các bác sĩ, y tá sẽ dựa vào những kết quả xét nghiệm chỉ định được trường hợp nào cần thiết và trường hợp nào chưa cần truyền nước biển. Tuy nhiên, trong một số ca mà các bác sĩ tuy chưa có được những kết quả xét nghiệm vẫn phải cho bệnh nhân truyền nước biển như: bệnh nhân bị mất nước, bị ngộ độc, suy dinh dưỡng nặng, mất máu, trước và sau khi giải phẫu...

Các thời điểm cần truyền nước biển

Truyền nước biển sẽ là liều thuốc hiệu quả khi được dùng đúng bệnh, đúng lúc, đúng liều. Việc lạm dụng truyền nước biển truyền hoặc dùng sai chỉ định có thể dẫn đến nhiều tai biến. Người bệnh cần được truyền nước biển trong các tình huống sau:

Truyền nước biển không đúng cách, không đúng liều lượng quy định sẽ dẫn đến những tác dụng phụ như:

Thêm vào đó, bệnh nhân còn có nguy mắc phải các biến chứng như:

Phương pháp truyền nước biển chỉ an toàn khi có chỉ định bác sĩ, để xác định cơ thể bệnh nhân và cần những loại truyền nước truyền gì. Cần tuân thủ tuyệt đối các quy định trong truyền nước biển về tốc độ, thời gian, số lượng, dụng cụ phải đảm bảo vô trùng tuyệt đối. Ngoài ra, nơi truyền nước biển phải có đủ các điều kiện xử lý chống sốc để phòng sự cố. Người truyền nước biển phải có trình độ chuyên môn. Điều quan trọng là người bệnh phải được theo dõi thật sát trong suốt quá trình truyền nước biển, để khi xảy ra tai biến hay biến chứng sẽ được xử trí cấp cứu kịp thời.

Truyền nước biển từ lâu đã trở thành một phương pháp quan trọng trong lĩnh vực y học và chăm sóc sức khỏe. Nhờ vào những tiến bộ về công nghệ và kiến thức y học, việc truyền nước biển đã giúp cứu sống hàng triệu người và đem lại sự an toàn và thuận lợi cho các quá trình điều trị.

Truyền nước biển là một phương pháp đưa vào cơ thể những giọt nhỏ chứa muối và các chất điện giải thông qua đường tĩnh mạch, nhằm đáp ứng nhu cầu y tế và chỉ khi có chỉ định của bác sĩ.

Dịch truyền nước biển có vị mặn, thành phần chính là NaCl 0,9%, thuộc nhóm các dung dịch truyền dùng để cung cấp nước và các chất điện giải cho cơ thể. Ngoài ra, còn tồn tại một số loại dịch truyền khác như Ringer lactate, Bicarbonate natri 1,4%,... được sử dụng trong các trường hợp như mất nước, mất máu do tiêu chảy, ngộ độc, nôn ói...

NaCl 0,9% là một dung dịch đẳng trương, áp suất thẩm thấu của nó gần tương đương với áp suất dịch trong cơ thể. Natri, là ion dương quan trọng trong dịch ngoại bào, đóng vai trò chủ yếu trong việc duy trì cân bằng nước, điện giải và áp suất thẩm thấu dịch của cơ thể. Trong khi đó, clo là ion âm chính trong dịch ngoại bào, có tác dụng trong quá trình bài tiết nước tiểu. Một điểm đáng lưu ý là dung dịch truyền nước biển (NaCl 0,9%) không gây tác động đến hồng cầu khi được điều trị.

Ở những người khỏe mạnh, các chỉ số về muối, đường và điện giải luôn duy trì ở mức độ cân bằng để đảm bảo hoạt động hàng ngày. Tuy nhiên, khi mắc phải các bệnh lý hoặc cơ thể trở nên suy nhược mệt mỏi quá độ, mất nước, mất máu, ngộ độc,... các chỉ số này sẽ giảm xuống và do đó cần được bổ sung thông qua phương pháp truyền dịch từ bên ngoài cơ thể.

Tóm lại, truyền nước biển hay truyền dịch là một phương pháp y tế quan trọng để cung cấp nước và các chất điện giải cho cơ thể, đồng thời bổ sung các yếu tố cần thiết cho sự phục hồi và duy trì sức khỏe. Tuy nhiên, việc sử dụng phương pháp này luôn cần được thực hiện dưới sự chỉ đạo của các chuyên gia y tế để đảm bảo an toàn và hiệu quả trong quá trình điều trị.

Có nhiều người thường nhầm lẫn giữa truyền nước và truyền dịch. Thực tế, đây là hai loại truyền hoàn toàn khác nhau và truyền nước chỉ là một loại trong nhóm truyền dịch.

Dịch truyền là một loại dung dịch hòa tan chứa nhiều chất khác nhau, có thể được truyền chậm hoặc trực tiếp vào tĩnh mạch của người bệnh. Nước cất thường được sử dụng làm dung môi để hòa tan các chất dược. Hiện có khoảng trên 20 loại dung dịch truyền được chia thành 4 loại chính:

Để trả lời câu hỏi về thời gian truyền nước biển, nó phụ thuộc vào loại dây truyền được sử dụng. Có hai loại chính là dây to 1ml với 15 giọt và dây nhỏ hơn 1ml với 20 giọt. Để tính thời gian truyền nước biển, ta cần lấy thể tích dung dịch truyền nhân với số giọt trong 1ml, sau đó chia cho tốc độ truyền.

Thời gian trung bình để truyền 1 bình nước biển dao động từ 1 giờ 30 phút đến 2 giờ. Tuy nhiên, thời gian này có thể kéo dài hơn hoặc ngắn hơn tùy thuộc vào cơ địa và tình trạng sức khỏe của mỗi người.

Khi nào cơ thể mới cần truyền nước?

Các chỉ số trong máu, muối, đường, chất điện giải,... ở cơ thể người đều có một mức giá trị nhất định, khi giá trị này giảm đi thì phải bù đắp thêm vào để không làm mất sự cân bằng. Lúc này chúng ta cần thực hiện xét nghiệm máu để kiểm tra chính xác lượng mất đi từ đó có những biện pháp bù đắp với liều lượng thích hợp. Do đó việc khám và xét nghiệm kiểm tra rất quan trọng trước khi truyền dịch, để có thể kiểm soát được lượng nước đưa vào cơ thể không ít hơn và cũng không nhiều hơn.

Tuy nhiên, nếu thuộc một trong số những đối tượng sau thì vẫn cho bệnh nhân truyền nước trước khi có kết quả xét nghiệm: bệnh nhân bị mất máu, mất nước, ngộ độc, trước và sau thực hiện phẫu thuật.

Hiện nay việc tự ý truyền dịch tại nhà khi cảm thấy cơ thể mệt mỏi, ngủ ít, ăn uống kém,... rất phổ biến. Không phải lúc nào truyền cũng tốt, tùy theo thể trạng và đối tượng bệnh nhân mà sẽ có nhóm dịch truyền khác nhau. Do đó việc truyền dịch mà không được bác sĩ kiểm tra rất dễ xảy ra tai biến và gây nên những hậu quả nghiêm trọng.

Đối với một số trường hợp bị mất nước nhưng vẫn còn khả năng ăn uống thì việc truyền dịch lại không hiệu quả bằng việc uống trực tiếp. Ví dụ: Truyền một chai muối 9% chỉ tương đương với việc bạn uống trực tiếp một bát canh, truyền glucose 5% chỉ như uống một muỗng cà phê đường.

Truyền nước khi được sự chỉ định của bác sĩ